THUỐC TÁN

Thứ Tư, 27 tháng 6, 2012

E. THUỐC TÁN

Thuốc tán, còn gọi là thuốc bột, dùng uống trong hay đắp ngoài. Thuốc tán có ưu điểm dễ bào chế, dễ uống, hấp thu nhanh, công hiệu lại chóng, tiết kiệm nhiều dược liệu hơn thuốc thang. Thường dùng trị bệnh mới cảm hoặc bệnh tương đối cấp tính. Dùng ngoài, có thể rắc vào chỗ đau để trị cục bộ.
Dược liệu thường dùng là thuốc phiến, sấy nhẹ cho khô đem tán bột, rây lấy bột mịn, dùng rây số 22-24.
Các dược liệu phải tán riêng, khi hợp lại phải chú ý trộn thật đều theo phương pháp trộn bột kép, lấy một màu sắc nổi bật làm cữ. Thuốc tán dùng cho ngoại khoa phải tán thật mịn, dùng rây nhỏ (số 22) thì tốt hơn, có khi phải dùng cách thủy trị để khỏi kích thích và đau nhức.
Thuốc tán không nên bào chế nhiều vì chóng mất chất và mốc, mọt. Đựng trong lọ hoặc thùng kín.
Bài thuốc điển hình: khô trĩ tán.
Thành phần:
Bột phèn phi 500g      Bột thần sa    300g
Bột ô mai    200g      Bột thạch tín 40g
Điều chế:
-   Phèn phi: lấy 2kg phèn chua cho vào chảo gang đun nóng cho đến khi chảy và khô hoàn toàn. Chỉ tắt lửa khi nào chắc chắn miếng phèn đã khô. Để nguội, cạo bỏ chỗ đen, tán bột mịn rồi chà lại trên miếng vải phin căng trên miệng cái bát.
-   Ô mai: lấy 2 kg ô mai cho vào chảo gang, vừa đun vừa đảo, tới khi thấy khói đen nhiều thì lấy vung đậy lại rồi nhắc xuống, để nguội, tán bột mịn chà lên vải phin.
-   Thần sa: tán nhẹ với ít nước trong cối sứ thành bột mịn, chà lên vải phin (thuốc này dùng ngoài nên không cần thủy phi).
-   Thạch tín: lấy 100g (một trăm) thạch tín cục cho vào nồi đất đun bằng than củi trong 2 giờ, cử 15 phút đảo một lần. Để nguội cạo bỏ chỗ bị cháy rồi tán bột mịn, chà lên vải phin.
Bốn vị trên đây điều chế xong, cân đúng số lượng trong công thức, trộn đều với nhau, trừ bột ô mai trộn sau cùng (màu đen, để bảo đảm độ đều), rồi tất cả lại rây nhiều lần (4 - 5 lần) để cho thật đều.
Đóng lọ kín, dán nhãn thuốc độc bảng A, thuốc bôi ngoài không được uống, dùng theo chỉ dẫn của lương y và bác sĩ.

THUỐC HOÀN

D. THUỐC HOÀN

Thuốc hoàn là một dạng thuốc làm bằng dược liệu tán mịn và chát dính làm thành viên.
Những bài thuốc có vị độc (thạch tín, hùng hoàng, hoàng nàn…) hoặc có chất thơm không sắc được và dùng để trị bệnh suy nhược mạn tính thì phải bào chế dạng thuốc hoàn.
Thuốc hoàn có những thuận lợi sau đây:
1. Thuốc tan chậm, do đó thuốc ngấm dần làm cho thuốc có tác dụng trị bệnh mạn tính (hoàn có nghĩa là hoãn sự thẩm hút).
2. Làm dễ uống đồi với cốc vị thuốc có mùi vị khó chịu (a ngùy, hắc phàn…).
3. Thuốc uống đúng liều lượng
4. Thuốc ít bị ảnh hưởng của không khí và hơi nước nên dễ bảo quản hơn thuốc tán.

1. Thành phần thuốc hoàn

1.1. Dược liệu
Thường là thảo mộc, động vật, thuốc cao đặc hoặc khô…
1.2. Tá dược
Là những chất không làm ảnh hưởng tới thuốc và còn có tác dụng làm tăng tính chất chữa bệnh của thuốc. Tá dược thay đổi tùy theo tính chất của dược liệu và thường trong công thức có ghi rõ dùng tá dược nào. Tá dược thường dùng là mật, bột nếp, nước, cao động vật v.v.
Nếu trong bài thuốc có sẵn mật, đường thì dĩ nhiên ta lấy những vị này để làm tá dược.

2. Dụng cụ làm thuốc hoàn

-   Thuyền tán: hiện nay có nhiều cải tiến để tăng năng suất, giảm sức lao động, được vệ sinh hơn. Tán nhiều thì dùng máy tán. Máy tán bằng bi có độ mịn cao hơn.
-   Rây: dùng rây làm bằng inox có số 22 hoặc 24.
-   Sàng: làm bằng inox để chọn lọc độ to nhỏ của viên thuốc theo yêu cầu: ít nhất là 2, 3 cỡ.
-   Máy trộn bột ướt: khi làm hoàn mềm
-   Bàn chia viên: để lăn và cắt thành viên. Cần có nhiều cỡ bàn 0,10 - 0,20g.
-   Máy bao viên: thay thúng lắc để làm viên nhỏ 0,10g - 0,15g (hoàn cứng).
-   Máy làm viên mềm: thay cho bàn lăn và ống in viên.
-   Tủ sấy: bằng điện, nhiệt độ 600 - 800C.

3. Cách bào chế:

Dược liệu được dùng nhiều nhất là thuốc phiến đã được sao tẩm theo yêu cầu của bài thuốc, sấy nhẹ cho khô rồi tán riêng hoặc tán chung, rây lấy bột mịn rồi trộn đều với tá dược làm viên. Cách làm thường chia mấy loại tùy theo tính chất của tá dược và phương pháp làm viên. Có hai phương pháp làm viên hoàn là phương pháp chia viên và phương pháp bao viên. Chọn phương pháp làm viên phải dựa vào tính chất của tá dược và trang thiết bị sẵn có.

3.1. Phương pháp chia viên (hoàn mềm)

Thường dùng mật ong vì bảo quản dễ, hơn nữa mật ong có nhiều chất dinh dưỡng hơn các mật khác. Mật ong nên chọn thứ trong, trắng, đặc. Loại sắc đỏ thẫm hoặc có lẫn xác ong non thì không nên dùng vì dễ làm hỏng thuốc. Mật ong đã được chọn, đun nhanh cho sôi bồng, vớt bỏ bọt (nếu để bọt thì viên thuốc dễ bị mốc và mọt), cô lại bằng cách thủy, đến khi nhỏ một giọt vào nước lạnh mà không tan là được. Cô xong, trộn dần với bột thuốc trong cối đá, giã nhuyễn và dẻo, đến khi không dính chày cồi là được. Dùng bàn chia viên rồi vo thành các viên tròn hay dùng máy chia viên. Viên hoàn mềm thường có cỡ từ 6 - 9g.
Thuốc hoàn mật dùng trị bệnh suy nhược mạn tính và dùng lâu.

3.2. Phương pháp bao viên (hoàn cứng)

Phương pháp này có thể chia thành 4 giai đoạn:
-   Gây nhân: nhân là những hạt nhỏ, là cơ sở để làm viên. Gây nhân là giai đoạn quan trọng để quyết định số lượng và chất lượng viên. Có hai phương pháp gây nhân.
+   Đi từ bột dược liệu: lấy một ít bột dược liệu làm ẩm với tá dược, xát qua cỡ rây thích hợp thành những hạt tròn.
+   Đi từ các hạt có sẵn: từ các hạt tròn của các cây thuốc sẵn có như thỏ ty tử, bạch giới tử… cũng có thể dùng đường kính làm hạt.
-   Bao viên: có thể bao bằng thúng lắc hay nồi bao đến kích thước nhất định. Trong quá trình bao phải chú ý đến khâu sấy viên, tránh nứt nẻ.
-   Áo viên thuốc: sau khi thuốc đã được chia thành viên, Đông y thường "áo" viên thuốc lại, mục đích để:
+   Viên thuốc giữ được hương vị trong lần áo đó.
+   Viên thuốc để được lầu.
+   Viên thuốc được đẹp hơn, màu sắc được đồng đều.
+   Đưa viên thuốc đến tận ruột (nếu có).
Tá dược dùng để áo thường là lựa chọn vị thuốc có trong công thức như thục địa, dây tơ hồng, hoạt thạch, hùng hoàng, chu sa hoặc là dược liệu có lông gây ngứa mà không dùng bột được (kim anh tử…). Dược liệu dùng để áo phải có mấy điều kiện sau đây:
•   Dễ nấu thành cao lỏng hoặc dễ tán mịn.
•   Có màu sắc đẹp.
•   Để lâu không bị mốc (bài số 5).
-   Đánh bóng viên: sau khi bao áo xong, sấy cho se mặt viên và đưa vào máy quay để đánh bóng mặt viên. Có thể dùng paraphin hay sáp ong để đánh bóng viên. Qua giai đoạn đánh bóng, viên thuốc lại được bao thêm một lớp nữa giúp cho tác dụng bảo quản và làm cho viên tròn, đẹp, đảm bảo độ chắc của viên.
Phương pháp bao viên áp dụng khi làm thuốc hoàn cứng. Người ta thường chia hai loại hoàn là hoàn hồ và hoàn nước.

3.2.1. Thuốc hoàn hồ: 

Hồ thường dùng là bột gạo nếp, cho nước vào, đun sôi quấy đều thành hồ.
Hồ loãng thì cứ 1kg bột thuốc dùng 20 - 30g bột gạo đun với 800 - 900ml nước để thuốc chóng tiêu; hồ đặc thì cứ 1kg bột thuốc dùng 50g bột đun với 600ml nước để cho thuốc chậm tiêu (hồ này ít dùng), Hồ lỏng quá thì viên thuốc chóng rời bã; hồ đặc quá thì viên thuốc cứng rắn, khó tiêu. Được hồ rồi, lấy một ít bột dược liệu trộn với ít nước hồ cho hơi mềm rồi xát qua sàng thưa để làm hạt gây con: sấy khô. Cho hạt này vào máy bao viên vẩy nước hồ, cho máy chạy rồi lần lượt cho bột, nước hồ, lắc tới khi đạt được cỡ viên yêu cầu. Phải dùng sàng để loại viên cỡ bé và cỡ to quá, bé thì lắc lại, to thì phá đi làm lại (ít xảy ra). Loại viên này có khối lượng từ 0,10 - 0,50g.
Dùng hồ làm hoàn khi bài thuốc không có đường mật, cao động vật, hoặc dược liệu không có đủ chất dính (bài số 2).

3.2.2. Thuốc hoàn nước: 

Dùng nước làm hoàn phải có điều kiện cốt yếu là dược liệu có sẵn chất dính và trong bài thuốc không có mật, đường, cao động vật… nếu có những vị này thì pha loãng ra với nước mà lắc viên (đối với mật thì đun sôi bỏ bọt).
Số lượng nước dùng để rẩy lên bột từ 80% đến 90% (thuốc nam) và từ 40% đến 50% (thuốc bắc) so với bột dược liệu. Làm viên bằng thùng lắc (bài số 3).
Thuốc hoàn nước có đặc điểm dễ tan hơn thuốc hoàn mật hoặc hồ, dùng để chữa các bệnh cấp tính và ở thượng tiêu, nhưng khó bảo quản vì dễ nát và mốc.
Thuốc hoàn dùng trị bệnh ở thượng tiêu (tim, phổi) hoặc ở hạ tiêu (gan, thận) thì làm viên cỡ 0,10g; dùng trị bệnh ở trung tiêu (tỳ vị) thì làm viên cỡ 0,20g trở lên.
Đối với thuốc có vị độc thì nên viên bằng hạt vừng (nếu bài thuốc chỉ có 1 - 2 vị) hoặc bằng hạt đậu xanh (nếu bài thuốc có 3 - 4 vị).
Tóm lại, trên đây là những phương pháp căn bản để làm thuốc hoàn. Kỹ thuật bào chế từng bài thường thay đổi tùy theo tính chất của dược liệu trong công thức, không thể trình bày hết được. Từng bài nói chung phải thử xem có thích ứng với tá dược nào, với dụng cụ nào, sau đó mối làm hàng loạt được.
Làm thuốc hoàn phải chú ý vệ sinh dụng cụ, tránh ruồi nhặng, nên dùng cách sấy hơn là phơi nắng, tránh bụi bặm, thành phẩm phải đóng gói vào chai lọ sạch sẽ, gắn xi sáp, để chỗ mát.

BÀI SỐ 1: BỔ ÂM NHUẬN TRÀNG

Thành phần:    
Lá dâu khô    09 kg
Mè đen          06 kg
Mật ong         13 kg
Điều chế: dùng lá dâu bánh tẻ, phơi âm can cho khô, vò bỏ gân lá. Mè đen sàng sẩy rồi rửa sạch để gạn bỏ sạn và các tạp chất, phơi khô, tán bột mịn với lá dâu. Mật ong cô lại, trộn đều giã nhuyễn, làm viên 0,5g.
Thành phẩm:   20,180kg

BÀI SỐ 2: NHÂN SÂM BẠI ĐỘC

Thành phần:
Sa sâm                 1 kg             Chỉ xác         0,5kg
Độc hoạt              0,5kg           Cát cánh       0,2kg
Sài hồ                  0,5kg            Bạch linh      0,5kg
Tiền hồ                0,5kg           Cam thảo       0,2kg
Xuyên khung      0,5kg            Hồ loãng       vđ (vừa đủ)
Khương hoạt      0,5kg
Điều chế: các vị tán bột mịn (rây số 22), gây con. Dùng nước hồ loãng làm viên bằng thúng lắc hoặc máy bao viên, sấy qua cho khô.
Thành phẩm:   4,400 kg

BÀI SỐ 3: CỐ TINH HOÀN

Thành phần:
Liên nhục         2 kg            Hoài sơn       2 kg
Khiếm thực      0,5 kg         Liên tu          1 kg
Sừng nai           1 kg           Kim anh tử    0,5kg
Nước               vđ
Điều chế: sừng nai cưa nhỏ, hầm trấu. Kim anh tử nấu lấy 4,81 nước cao. Các vị khác cùng với sừng nai đã chế tán bột, rây mịn, gây con. Dùng nước kim anh tử để làm viên với thúng lắc hoặc máy bao viên.
Thành phẩm:   5,8kg.

BÀI SỐ 4: DẠ DÀY SỐ 8

Thành phần:
Ô tặc cốt                  1 kg
Cam thảo                 0 kg 75
Thổ bối mẫu            0 kg75
Tá dược:
Bột tùng hương       0kg80 - (10%)
Hoạt thạch              0kg40 - (5%)
Bột nếp                   0kg56 - (7%)
Nước vừa đủ           4lít 50
Điều chế: lấy nước nấu với bột nếp thành hồ loãng. Các dược liệu bào chế đúng quy cách, sấy khô tán bột mịn, trộn với các tá dược. Dùng nước hồ làm cốm, sấy khô, nén viên 0,50g.
Thành phẩm:   6,650 kg

BÀI SỐ 5: BÁT VỊ HOÀN

Thành phần:
Thục địa   2,4kg         Hoài sơn   1,2kg
Sơn thù   1,2kg           Đơn bì   0,9kg
Trạch tả   0,9kg          Bạch linh   0,9kg
Nhục quế   0,6kg        Phụ tử chế   0,3kg
Nước       vđ               Mật ong   3,0kg
Điều chế: thục địa nấu với nước lấy 480ml. Lấy 240ml cao này trộn với 2,8kg mật ong và 3kg nước đun sôi (bỏ bọt). Các vị khác cùng với bã thục địa sấy khô tán bột mịn, gây con, vẩy nước mật ong vào bột làm viên bằng máy vo viên. Lấy 240ml cao thục địa còn lại trộn với 0,2kg mật ong còn lại, để áo viên thuốc bằng máy vo viên.
Thành phẩm:   9,2kg.

THUỐC CAO NƯỚC

C. THUỐC CAO NƯỚC

Thuốc cao nước là những dạng thuốc dùng nước để nấu dược liệu rồi cô lại đến mức độ nhất định.
Bào chế dạng thuốc này phải qua ba giai đoạn: giai đoạn đầu nấu lấy nước; giai đoạn hai cô lại các nước nấu; giai đoạn cuối thêm đường hay mật hoặc rượu để làm ra thành phẩm.
Dược liệu dùng phải chế biến (thái, bào, sao tẩm…) theo yêu cầu từng loại. Số lượng nước dùng không quá số lượng cần thiết để rút hoạt chất, thường gấp 4 đến 6 lần trọng lượng dược liệu vì nếu dùng nhiều nước quá thì thời gian cô phải kéo dài, sức nóng và không khí làm hỏng phẩm chất thuốc.
Thời gian đun cũng tùy theo dược liệu: thân rễ cứng 6 - 8 giờ, lá cành nhỏ 4 - 6 giờ cho một lần nấu 20 kg dược liệu.
Khi cô hoặc khi cô gần được phải cô cách thủy ở nhiệt độ thấp (đối với loại cao đặc).
Dụng cụ dùng nấu cao thường là thùng nhôm hoặc inox; không nên dùng đồ sắt, gang.
Căn cứ vào thể chất mà người ta chia thành các loại cao như sau:
1. Cao lỏng: có thể chất lỏng sánh, có mùi đặc trưng của dược liệu bào chế cao, có thể dùng trực tiếp để điều trị bệnh. Tỷ lệ giữa thể tích cao và lượng dược liệu bào chế cao thường là 1:1 (1g dược liệu thu được 1ml cao lỏng), ngoài ra nếu dược liệu có thể chất cứng rắn, tỷ trọng cao như các khoáng vật, thân gỗ… thì có tỷ lệ dược liệu và thể tích cao có thể từ 1:3 đến 1:5.
2. Cao mềm và cao đặc: là hai loại cao này đều được bào chế từ cao lỏng bằng cách cô đến thể chất nhất định.
+   Cao mềm: thể chất lỏng sánh như mật đặc, hàm lượng nước trong cao khoảng 20-25%.
+   Cao đặc: thể chất dẻo, đặc quánh, sờ không dính tay, hàm lượng nước trong cao khoảng 10-15%.
3. Cao khô: là khối xốp hoặc bột khô đồng nhất, hàm ẩm trong cao không quá 5%.
Cao mềm, cao đặc và cao khô thường được dùng để bào chế các loại thuốc khác, không dùng trực tiếp để uống.
Đông y rất thường dùng cao nước để trị bệnh mạn tính, làm thuốc bổ.
Nấu cao nước rất phức tạp, tùy theo từng bài mà bào chế cho thích hợp. Dưới đây xin giới thiệu bài "cao trâu cổ" để làm điển hình.
Thành phần:
Trâu cổ                      20 kg
Đậu đen tồn tính       04 kg
Đường cát trắng        3,2 kg
Rượu đế                    04 lít
Nước                         vừa đủ
Điều chế:
Thân trâu cổ thái nhỏ, mỏng rửa sạch phơi khô cho vào thùng cài phên để khỏi bồng. Đổ nước ngập dược liệu trên 10 cm, đun sôi.
Đậu đen: đổ ngập nước đun sôi đến nhừ mềm, lọc qua vải thưa, lấy nước tiếp vào thùng trâu cổ. Đun sôi đều lửa trong 6 giờ, thỉnh thoảng lấy thêm nước sôi cho đủ mức nước cũ và đảo dược liệu trong thùng, chắt lấy nước, lọc qua vải, để lắng 3 - 4 giờ, gạn lấy nước thứ nhất. Cô dần nước này lại. Bã còn lại, đổ ngập nước đun sôi trong 4 giò: chắt, lọc, để lắng, gạn lấy nước thứ hai.
Dồn 2 nước lại, lấy ra 2 lít để riêng, rồi đem cô chỗ còn lại cho đến khi còn 4 lít cao nước (1ml = 5g dược liệu khô).
Lấy 2 lít nước cao đã để riêng cho vào nồi nhôm khác. Cho 3,2 kg đường kính vào, đun sôi, quấy cho tan, lọc kỹ, lấy nước đường này cho vào 4 lít cao nói trên, để nguội rồi pha vào 4 lít rượu trắng để lắng. Thành phẩm: 10 lít.
Đóng vào chai 120 ml (đã tiệt trùng), gắn sáp, dán nhãn, để nơi râm mát.

KỸ THUẬT SẮC THUỐC

B. KỸ THUẬT SẮC THUỐC

Sắc thuốc có nghĩa là dùng một chất lỏng (nước, rượu…) đổ ngập dược liệu, đun sôi lên, chắt lấy nước để uống. Đông y gọi là thuốc thang.
Thuốc thang được dùng rộng rãi nhất vì hấp thụ nhanh, công hiệu cũng nhanh, mọi tật bệnh đều có thể dùng thuốc thang, nhất là bệnh mối cảm hoặc cấp tính.
Thuốc thang thường uống làm 2 - 3 lần trong ngày: trưa, chiều và tôi.
Y Doãn (thế kỷ XVIII trước CN) là người đầu tiên dùng phương pháp sắc thuốc lấy nước uống để trị bệnh.

1. Dụng cụ sắc thuốc và nước để sắc

a. Dùng siêu bằng đất là tốt nhất, nhưng ngày nay có thể dùng ấm men hay nhôm; không được dùng đồ sắt, gang vì có nhiều dược liệu kỵ gang, sắt (chất chát, acid…). Siêu, ấm dùng không nên nhỏ quá, phải chứa được 1,5l nước.
b. Một cái rây nhỏ, đường kính 8 - 10 cm để lọc nước thuốc.
c. Nước dùng phải là nước trong, sạch (nước mưa, nước máy, nước giếng).

2. Kỹ thuật sắc thuốc

Kỹ thuật sắc thuốc đối với công hiệu của thuốc rất quan trọng. Lý Thời Trân viết: "Uống thuốc thang, dẫu phẩm chất thuốc tốt và bào chế đúng phép, nhưng sắc lỗ mãng, vội vàng, đun lửa không đúng mức, thì thuốc cũng không công hiệu”.
Sắc thuốc có một quy tắc nhất định cần phải tuân theo, (nhất là mức độ lửa, nước và thời gian). Tóm lại như sau:
Có hai loại thuốc sắc: thuốc phát tán và thuốc bổ.
-   Sắc thuốc phát tán: loại thuốc này phần nhiều lấy khí, cho nên dùng lửa to (vũ hỏa) sắc nhanh, đổ ít nước ( vừa đủ ngập dược liệu) sắc một lần, đun sôi độ nửa giờ.
-   Sắc thuốc bổ: loại thuốc này cần lấy vị cho nên phải dùng lửa nhỏ (văn hỏa), sắc chậm để chất thuốc đủ thì giờ thoát ra, đổ nhiều nước (ngập thuốc trên 3-5cm), đun âm ỉ trong 2 giờ. Sắc 2 lần, cô lại 2 nước cho đến khi còn 1 bát độ 250 ml.
Các loại thuốc thơm, cần lấy khí vị cho nên khi sắc thuốc gần được mới bỏ vào sau (bạc hà, tử tô, kinh giới, quế chi).
Các loại khoáng vật (thạch cao, đại giả thạch, thạch quyết minh…) tinh dầu thuốc khó ra, cần phải giã nát rồi mới sắc.
Nếu trong thuốc thang có a giao, xuyên bối mẫu, xuyên tam thất (tán bột) thì khi sắc được thuốc thang mới cho các vị trên vào đánh tan ra mà uống. Các loại như quế, trầm, bắc mộc hương thì phải mài với nước thuốc rồi uống (xung phục).
Ma hoàng thì phải sắc trước, bỏ bọt, sau mới cho thuốc khác vào để sắc (ma hoàng thang).
Thang thuốc có các vị thuốc là hạt (sa nhân, tô tủ…) thì cần làm dập trước khi sắc.
Các dược liệu là bột, có lông cần cho vào một túi vải để sắc.
Ghi chú: đối với thang thuốc trẻ em, dùng siêu bé hơn; số lượng nước thuốc lấy độ 1/2 hay 1/3 của người lớn.
Đối với thuốc Nam có nhiều lá và cành nhỏ chỉ cần sắc một nước trong 1-2 giờ, lọc rồi cô lại. Nhưng với rễ cứng, cành to thì vẫn nên sắc 2 lần.
Nếu tổ chức giã dập vụn được thuốc phiến rồi ngâm 1/2 giờ mới sắc thì thời gian chỉ bằng 1/2 thời gian sắc theo cổ điển, mà phẩm chất lại được tốt hơn.

3. Trách nhiệm chung trong vấn đề sắc thuốc

Để thực hiện đúng đắn quy tắc sắc thuốc nói trên, để thuốc sắc có công hiệu thì:
a. Người kê đơn phải ghi chú rõ ràng trong đơn thuốc: thuốc phát biểu hay thuốc bổ, các vị cần sắc trước hay sắc sau.
b. Người bốc thuốc phải gói riêng những vị kê trong đơn theo lời dặn của người kê đơn để người sắc thuốc không lầm lẫn và ghi ngoài thang thuốc đây là loại thuốc gì.
c. Người sắc thuốc phải được học tập tác dụng của thuốc thang và quy tắc sắc thuốc để thấy tầm quan trọng của việc sắc thuốc mà tuyệt đối tuân theo kỹ thuật chuyên môn.
Phải theo dõi quá trình sắc thuốc, nhất là khi thuốc đang sôi (giờ cao điểm) phải có mặt tại chỗ và thỉnh thoảng đảo dược liệu trong ấm lên xuống, nếu không thuốc sẽ bị trào hoặc bị cháy.
Phải có biện pháp chống lầm lẫn cụ thể để tránh thang thuốc của người này lại đưa cho người khác.

CÁC THỦ THUẬT BÀO CHẾ THUỐC PHIẾN

A. CÁC THỦ THUẬT BÀO CHẾ THUỐC PHIẾN

Công việc bào chế thuốc phiến rất nhiều, nhưng có 4 loại chính:
-   Làm bằng tay
-   Dùng nước
-   Dùng lửa
-   Dùng lửa và nước.

1. Làm bằng tay

1.1. Làm sạch dược liệu:

-   Rửa: các dược liệu trước khi đưa ra bào chế đều phải rửa sạch; thường là các loại củ, rễ, hột… (huyền sâm, bạch vi, vừng đen…).
Các rễ, củ phức tạp thì phải tách nhỏ ra rồi mới rửa.
Có những vị khi rửa không nên ngâm lâu, vì mất chất (cam thảo, sinh địa…) hoặc không rửa được (bối mẫu, quy v.v…).
Dược liệu có muối cũng phải rửa cho sạch bớt muối (côn bố, hải tảo, diêm phụ…).
Các hoa, cành nhỏ (cúc hoa, hồng hoa) không nên rửa, chỉ chọn lọc hoặc sàng sẩy bỏ tạp chất.
-   Sàng, sẩy: dùng giần sàng để bỏ rác, tạp chất lẫn trong dược liệu (tử tô, mạn kinh tử, liên kiều, cúc hoa).
-   Chải, lau: dùng bàn chải lông, tre mềm để chải các dược liệu như: hoài sơn, các loại sâm… Khi chải, lau có thể dùng nước, dùng rượu, xong rồi đem sấy lại cho khô. Cách này còn dùng để làm sạch những lông gây ngứa ở thân, lá (bồng bồng).

1.2. Chọn lọc

Bộ phận dùng của dược liệu phải chọn lựa để dùng cho thích hợp, đáp ứng với yêu cầu tác dụng của vị thuốc.
Bỏ gốc, mắt: ma hoàng dùng phát hãn thì dùng thân bỏ rễ, bỏ đốt (nhưng thường dùng cả đốt).
Bỏ rễ con, lông: vì ít tác dụng, lại gây tác hại, làm nặng thang thuốc (hoàng liên, hương phụ, xương bồ, tri mẫu).
Bỏ hạt: hạt là hột cứng trong dược liệu, không có tác dụng thì bỏ đi; ví dụ hạt ô mai (nhưng ít khi bỏ), sơn tra, sơn thù…
Bỏ chân, đầu: thuyền thoái, toàn yết có móng chân, răng nhọn dùng trong thuốc tán thì bỏ đi; đầu cóc có mủ độc phải bỏ đi (đầu từ dưới hai u mắt).
Bỏ vỏ, màng: đào nhân, hạnh nhân, sử quân tử có màng không cần đến thì giội nước sôi, để một lúc màng bong ra tước bỏ đi; có thứ phải rang cho vàng rồi xát cho tước vỏ (bạch biển đậu); có thứ đập nhẹ cho tróc và lấy nhân (qua lâu nhân).
Bỏ lõi ruột: bách bộ, mạch môn đông thì ủ hay đồ mềm rồi rút bỏ lõi vì gây "phiền"; kim anh tử thì nạo bỏ lông.

2. Dùng nước (Thủy chế)

Dùng nước để làm cho dược liệu được sạch, mềm, tiện cho việc thái mỏng, hoặc để giảm độc tính hoặc thay đổi tính năng của nó.
-   Rửa: đã nói ở trên.
-   Ngâm: dùng nước thường hay nước vo gạo đặc đổ ngập để dược liệu mềm dễ thái, bào hoặc làm giảm độc tính của dược liệu về mặt nào đó (hoàng nàn, hà thủ ô, mã tiền…)
Tùy từng dược liệu mà thời gian ngâm từ 1 giờ đến 24 giờ hay hơn. Ngâm lâu thì hàng ngày phải thay nước ngâm một lần.
Ủ: dùng nước lã, số lượng ít, làm cho dược liệu đủ thấm ướt để dễ bào thái (ba kích, hoài sơn, bạch truật), nếu ngâm lâu thì làm mất tính chất của thuốc, cách này gọi là ủ. Thường muốn ủ thì làm ướt dược liệu rồi lấy bao bố tời, vải ướt đậy kín vài giờ hay vài ngày thì dược liệu mềm, lấy ra bào thái (xuyên khung…).
Tẩm: dùng rượu, giấm, muối, gừng nhào vào dược liệu cho đủ ướt để cải biến thay đổi tính chất của dược liệu, cách này rất thường dùng.
Trước khi tẩm, dược liệu thường được thái miếng mỏng phơi hoặc sấy qua cho khô.
Thời gian tẩm: tùy từng dược liệu mà thời gian ngâm từ vài giờ cho đến 8 - 10 giờ.
Sau khi tẩm rồi đem sao lại cho khô, sao cho vàng là được.
Ý nghĩa của tẩm sao:
-   Tẩm rượu sao:
Rượu thường dùng là rượu trắng (350 - 400). Tẩm xong để nửa giờ đến 1 giờ rồi đem sao. Lửa nên để nhỏ, sao lâu để rượu đủ sức ngấm vào thuốc, hơi rượu chớm bốc có mùi thơm bay ra là được. Số lượng rượu dùng tùy theo dược liệu từ 50 đến 200 ml cho 1 kg thuốc.
Sách nói: tẩm rượu sao để thăng đề (dùng rượu để dẫn thuốc lên các bộ phận phía trên của cơ thể). Tẩm rượu sao để giảm tính lạnh, thêm sức ấm cho dược liệu (hoàng bá, hoàng cầm, hoàng liên, bạch thược, sơn thù, tục đoạn, thường sơn, nhục dung, phòng kỷ…).
Tẩm rượu để một số chất của vị thuốc dễ tan vào rượu, rồi sau tan vào thuốc sắc.
-   Tẩm gừng sao:
Gừng tươi rửa sạch, giã dập, thêm ít nước, vắt lấy nước để tẩm, để ngấm chừng một giờ rồi đem sao lửa nhỏ, sao lâu cho đến khi có màu vàng thấy mùi thuốc thơm là được, số lượng nước tẩm từ 5% đến 10% hoặc 15% tùy theo dược liệu.
Thường 1 kg dược liệu phải dùng từ 50 - 100g gừng. Các loại sâm cũng thường tẩm nước gừng sao thơm để tăng sức bồi dưỡng. Lửa nhỏ, nhiệt độ 500 - 600, thuốc hơi vàng là được, không để già quá.
Có những vị nhỏ, hay bị cháy sém như hồng tu sâm, nhị hồng sâm, tẩm gừng xong nên sao trên giấy. Trải giấy lên mặt chảo rồi đổ thuốc lên sao (nhiệt độ 300 - 400 gọi là sao cách giấy).
Tẩm gừng sao để mượn chất ấm của gừng làm giảm tính lạnh của dược liệu. Gừng làm ấm tỳ vị và giúp thêm tiêu hóa.
-   Tẩm muối sao:
Muối ăn một phần cho 5 phần nước đun sôi, lọc. Lấy nước tẩm đều với thuốc để 1 - 2 giờ rồi đem sao. Lửa nhỏ, sao chậm, đến khi mặt dược liệu vàng già là được (đỗ trọng, trạch tả, hoàng bá, phá cố chỉ, ích trí nhân). Số lượng nước tẩm thường là 5% dược liệu.
Tẩm muối sao để vị mặn dẫn thuốc vào thận.
-   Tẩm giấm sao:
Giấm có nhiều loại, thứ tốt nhất là loại giấm thanh nuôi bằng chuối, bún; mùi chua, thơm và hơi ngọt.
Dùng giấm ăn thường cũng được nhưng đừng chua quá (có thể pha thêm nước ấm cho loãng ra), nhạt quá thì giấm kém tác dụng. Nói chung giấm có độ acid acêtic 5% là vừa.
Nếu số lượng nhiều hơn, bỏ dược liệu vào một cái chậu dội giấm lên đảo đều. Lấy bao tải sạch đậy lại để qua một đêm, hôm sau lấy ra từng ít, sao vàng cạnh là được.
Số lượng giấm dùng là 5% dược liệu.
Các dược liệu thường tẩm giấm: hương phụ, miết giáp.
Sách nói: vị chua hay dẫn vào gan.
Sao giấm để làm tăng tác dụng chỉ thống của vị thuốc (huyền hồ), giảm tính kích thích của một số vị thuốc.
Giấm là loại acid, tẩm với dược liệu để gây một phản ứng nào đó giúp thuốc thêm tác dụng trị bệnh.
-   Tẩm đồng tiện sao:
Dùng nước tiểu trẻ em trai dưới 5 tuổi khỏe mạnh không bệnh tật, mới đái bỏ phần đầu và phần cuối, lấy phần giữa. Sau khi tẩm dược liệu thì đem sao vàng. Số lượng đồng tiện dùng thường là 5% dược liệu.
Tẩm đồng tiện để dẫn thuốc vào huyết và giáng hỏa (hương phụ).
-   Tẩm nước gạo sao:
Gạo mới vo, nước gạo nên đặc, không quá loãng.
Tẩm xong để một đêm cho thấm, sấy khô rồi sao vàng cạnh là được.
Tẩm nước gạo vo để làm bớt tính ráo của dược liệu (thường là dược liệu có tinh dầu như thương truật…)
Khi thấy đơn ghi tẩm mễ tráp, mễ cam tráp sao thì phải làm đúng kỹ thuật như trên, chứ không phải nhúng qua nước gạo rồi sao ngay.
-   Tẩm sữa:
Tẩm sữa để làm vị thuốc bớt tính ráo và dưỡng huyết.
Xưa hay dùng sữa người, nay dùng sữa bò (nửa sữa bò, nửa nước sôi). Bạch linh thường hay được tẩm sữa để 1 - 2 giờ rồi sao vàng. Hoài sơn cũng có dùng sữa tẩm một lúc rồi sao thơm. Khi sao dùng lửa nhỏ (ít dùng).
-   Tẩm mật sao:
Mật thường dùng là mật mía, muốn tốt hơn thì dùng mật ong. Mật không nên đặc quá, đặc quá mật chỉ bám ở ngoài khi gặp nóng, mật sẽ quánh lại ở phía ngoài mà không thấm vào dược liệu, do đó nên pha 1 nửa mật và 1 nửa nước sôi vào mật đặc, đun nhỏ lửa khuấy đều. Tẩm xong để 2 - 3 giờ cho thấm rồi đem sao; sao vàng cạnh sờ không dính tay là được (sao chậm).
Dược liệu thường tẩm mật: hoàng kỳ, cam thảo, tang bạch bì, tỳ bà diệp, bạch tiền, cù túc xác. Số lượng mật dùng tẩm tùy theo dược liệu, từ 10% -20%.
Mật là chất ngọt giúp thêm nhiệt lượng cho cơ thể, có tính cách bồi dưỡng. Chất ngọt làm giảm chất đắng, chất chát của một số vị thuốc; thêm sức ấm bổ cho hoàng kỳ, đảng sâm; thêm sức nhuận phế, chữa ho cho tử uyển, bách bộ v.v…
-   Tẩm hoàng thổ sao:
Dùng đất vách lâu ngày (trần bích thổ), đất lòng bếp (phục long can) hoặc hoàng thổ (đất sét), cứ 100g bột đất cho vào 1 lít nước đun sôi khuấy đều, chắt bỏ nước trên, gạn lấy nước giữa, bỏ cặn. Cứ 1000g dược liệu tẩm với 400ml nước bột đất trên để qua 2 - 3 giờ, phơi hoặc sao cho vàng là được.
Có người dùng bột vàng sao với dược liệu, dược liệu tự bám lấy một số bột đất trong khi sao do chất dầu tiết ra, sao vàng cạnh là được. Có người lấy bột đất sét hòa với nước cho vừa sền sệt tẩm vào miếng bạch truật cho lên chảo sao khô đến vàng cạnh.
Tỳ thuộc thổ, vàng là màu của thổ, đất là chất của thổ, sao hoàng thổ để dẫn thuốc vào tỳ vị.
Dược liệu có tinh dầu sinh ra tính ráo, đất sao với bạch truật hút một số dầu của bạch truật do đó làm giảm tính ráo đi.
-   Tẩm nước đậu đen, nước cam thảo:
Cứ 100g đậu đen cho vào 1 lít nước đun kỹ (đối với cam thảo thì tán bột ngâm 1 ngày 1 đêm) lấy nước sắc mà tẩm hà thủ ô, trâu cổ, viễn chí. Số lượng nước tẩm thường từ 10 đến 20% dược liệu.
Tẩm nước đậu đen, nước cam thảo để giải độc, làm tính thuốc êm dịu, đỡ chát.
-   Thủy phi: thủy phi là phương pháp tán nghiền dược liệu trong nước với mục đích sau đây:
+   Lấy bột mịn tinh khiết.
+   Làm cho bột mịn không bay lên được khi tán nhỏ.
+   Để tránh sức nóng làm biến hóa thành phần thuốc.
Trước hết đem tán dược liệu cho thật nhỏ (ngũ linh chi, thạch quyết minh), đổ nước vào cho ngập quá đốt ngón tay. Khuấy đều, hớt bỏ màng, bụi rác nổi trên mặt nước, đồng thời vừa khuấy nhẹ, vừa gạn nước sang bên khác. Cặn ở dưới thì bỏ đi. Nước gạn được để lắng một thời gian, đến khi nước thành trong thì chắt nước này bỏ đi. Chất lắng xuống đem phơi và tán lại thành bột. Làm được 2, 3 lần càng tốt.
Dược liệu kỵ nóng, không tán khô được (chu sa) thì cho vào ít nước rồi tán.

3. Dùng lửa (Hỏa chế)

Đem dược liệu trực tiếp hoặc gián tiếp với lửa làm cho thuốc khô ráo, xám vàng hoặc thành than với mục đích để bảo quản hoặc để thay đổi tính chất và tăng hiệu lực của thuốc.

3.1. Sao

Sao là công việc thường xuyên của người bào chế, cũng là phương pháp quan trọng của việc bào chế thuốc phiến.
Đồ dùng để sao thường là chảo gang, cái đảo hoặc cái bàn xản hay đôi đũa cả và một chổi để quét dược liệu ra khỏi chảo gang. Trước khi sao, dược liệu cần phải được phán loại to, nhỏ để khi sao được vàng già và đều, không sao chung thứ to thứ nhỏ với nhau, vì thứ nhỏ bị cháy trước mà thứ to lại chưa được.
Khi sao cần chú ý đến những yêu cầu sau đây:
Về già non (màu sắc của thuốc trong chảo sao)
Về thời gian (nên nhanh hay chậm)
Về lửa (nên to, nhỏ, hay vừa)
Về khói thuốc (nhiều hay ít; đen hay vàng, trắng)
Tất cả các điểm trên đây cùng chú ý trong một lúc để dược liệu sao đạt được yêu cầu.
Có hai cách sao:
Sao không thêm chất khác.
Sao có thêm chất khác.
a. Sao không thêm chất khác:
-   Sao vàng: sao cho ngoài có màu vàng, trong ruột vẫn như màu cũ, cốt có mùi thơm hoặc để vị thuốc bớt tính lạnh. Lửa để nhỏ thời gian sao lâu, cốt để nhiệt độ thấu nóng vào đến ruột (ngưu bàng, hoài sơn, hòe hoa…). Có thú trước khi sao cần vẩy qua nước cho ẩm để sức nóng vào trong mà không cháy cạnh: ý dĩ, đậu đen…
-   Sao vàng hạ thổ:
Quét sạch đất (có người đào hố sâu dưới đất 10 - 30cm), sau khi sao úp thuốc xuống đất, đậy vung lại để 10 - 15 phút cho nguội (nên trải miếng vải hoặc giấy mỏng rồi úp thuốc lên cho được sạch sẽ).
Cách sao này có ý nghĩa như sau:
+   Cho vị thuốc khô dễ bảo quản
+   Cho vị thuốc lên mùi thơm để nhập tỳ, không buồn nôn.
+   Để giảm bớt tính lạnh của thuốc (phần âm) bằng cách dùng lửa. Khi dùng lửa như vậy thì phần dương của thuốc tàng lên gây hỏa độc (nóng, sốt, đinh mụn) cho nên phải hạ thổ để đất hút bớt phần dương của thuốc (hỏa độc) đồng thời trả lại ít phần âm cho thuốc (cân bằng âm dương).
Ví dụ: rễ cỏ xước, gối hạc, muồng trâu…
-   Sao già sém cạnh:
Áp dụng cho các vị thuốc chua chát hoặc tanh lợm quá (binh lang, huyết giác, thần khúc, chỉ thực, thăng ma) để thay đổi mùi vị, nhưng vẫn bảo đảm chất thuốc.
Dùng lửa to, khi chảo đã thật nóng mới bỏ thuốc vào, đảo không cần nhanh, khi thấy mặt ngoài sém cạnh nhưng màu ruột thuốc vẫn giữ nguyên là được.
-   Sao tồn tính (hắc sao):
Để thêm tác dụng tiêu thực, tả lỵ huyết, khái huyết hoặc làm thay đổi tính chất của thuốc (hương phụ, địa du, hắc kinh giới…).
Để lửa già, chảo thật nóng, đảo đều đến khi bên ngoài cháy đen, bẻ ra trong còn màu vàng cũ là được.
-   Sao cháy (thán sao):
Để thuốc có tác dụng chỉ huyết. Lửa để già, chảo thật nóng để dược liệu cháy đen, đảo đều, úp vung lại ngay để nguội (thán khương).
Sao cháy không có nghĩa là sao thành tro mà bao giờ cũng cho cháy đến 7/10. So với sao tồn tính, mức độ có cháy hơn.
Mấy điều chú ý khi sao cháy:
+   Không nên sao nhiều một lúc vì sẽ không đều và dễ gây hỏa hoạn.
+   Sao cái lớn trước, cái nhỏ sau.
+   Không nóng ruột, không châm lửa cho cháy, không phun nước vào, nhưng cũng có khi phải châm lửa đốt (ô mai).
+   Chuẩn bị cái vung để úp chụp đậy kín vì dược liệu sao cháy có lửa âm ỉ ở dưới (nếu không đậy vung mà bỏ đấy thì có thể tự nhiên bốc cháy gây hỏa hoạn).
b. Sao có thêm chất khác:
Sao thuốc bằng cát, bằng bột văn cáp (vỏ hàu hến) hoặc hoạt thạch là mượn các thứ này làm trung gian truyền nhiệt (cát giữ nhiệt ở 300oC, văn cáp 250oC, hoạt thạch 200 - 220oC). Khi sao, các thứ đó bao quanh miếng thuốc làm cho miếng thuốc không chạm đáy chảo mà thấm nhiệt đều và sâu vào miếng thuốc.
-   Sao cát:
Chọn thứ cát mịn nhỏ, đãi thật sạch, cho cát vào chảo rang trước cho nóng già (lửa lúc đầu nhỏ sau to dần). Sau khi cho thuốc vào đảo thật đều tay, đến khi được đổ vào sàng mà sàng lấy thuốc (xuyên sơn giáp, mã tiền…).
-   Sao hoạt thạch, văn cáp:
Áp dụng cho những chất dẻo, chất có dầu hoặc nhựa để khỏi dính vào nhau hoặc bốc mùi tanh khét và sau dễ tán (a giao, lông nhím…).

3.2. Chích

Tức là nướng dược liệu đã được tẩm mật (cam thảo, hoàng kỳ…) đến khi thây thơm, khó là được.

3.3. Đốt rượu

Áp dụng cho những dược liệu không chịu được sức nóng cao (nhung hươu và nai). Dùng cồn 90% để đốt hoặc hơ miếng nhung lên lửa cho cháy lông.
Làm như vậy không bị cháy sém, hơi rượu thấm nhung làm nhung thơm hơn, không gây tanh, bảo quản tốt.

3.4. Nung (hà):

Có nhiều cách nung:
-   Những loại khoáng vật nung trong những vò đất hay chảo gang đậy kín hoặc không đậy kín, xung quanh bên ngoài đốt lửa đến khi được lấy ra để nguội hoặc nhúng vào một chất loãng khác (giấm, nước hoàng liên) cho nguội. Cách này còn gọi là tôi.
Muốn trít được kín, dùng cám và lá khoai hai thứ bằng nhau cho thêm chút nước, nghiền cho nhuyễn rồi trít (2 chất này trộn với nhau thành 1 chất chịu được nóng không bị nứt nẻ), lấy giấy bản đặt lên chỗ trít rồi thấm nước cho ướt.
Bằng sa, phèn chua thường để hò không phải đậy kín; thạch tín phải đậy kín (thăng hoa).
-   Đưa dược liệu trực tiếp vào lửa nóng (thạch cao, mẫu lệ, thạch quyết minh…) để cho đỏ hồng.
+   Số lượng ít thì bỏ thẳng vào lò than, trên lưỡi dao hoặc mảnh ngói.
+   Số lượng nhiều hơn thì đặt dược liệu trên miếng sát, úp một cái chảo lên.
+   Số lượng nhiều hơn nữa thì cứ lượt trấu, lượt than, rồi lượt dược liệu và cứ thế cho đến hết, trên cùng phủ lớp trấu và than. Có thể đốt từ trên xuống hoặc từ dưới lên để cho cháy âm ỉ. Khi cháy gần hết rồi lấy dược liệu ra để nguội (thấy dễ bẻ là được). Nung xong rồi, dược liệu được đem tán bột dùng hoặc thủy phi rồi dùng.

3.5. Lùi (ổi)

Đưa thuốc vào tro nóng, không bén tới lửa, khi nóng chín thì lấy ra (ổi khương, cam thảo…). Có khi dược liệu được bọc vào giấy thấm ướt hoặc bọc cám rồi mới dúi vào tro nóng đến khi giấy hay cám khô là được (cam thảo, mộc hương…).
Phương pháp này có tác dụng là thu hút bớt một phần dầu trong dược liệu để giảm bớt tính kích thích.
3.6. Sấy (bồi)
Dùng lửa nhỏ hoặc tủ sấy để sấy dược liệu cho khô ráo, hơi vàng giòn là được (thủy điệt, manh trùng…).

4. Dùng cả lửa và nước (Thủy hỏa hợp chế)

Phối hợp lửa và nước để thay đổi tính chất của dược liệu.

4.1. Chưng

Chế biến dược liệu bằng cách đun cách thủy với những mục đích như sau:
-   Làm chín vị thuốc để tiện việc bào mỏng, chế thuốc tễ.
-   Thuốc chưng với rượu thường đổi chất thấy ngọt và thơm hơn, thêm sức ôn bổ, những vị đắng chát giảm đi, mùi tanh lợm mất đi, khí lạnh cũng bớt đi (thục địa, đại hoàng).
-   Thuốc được chưng với rượu khi vào tỳ vị dễ đồng hóa, dễ hấp thu nên có tác dụng bồi bổ.
-   Một số vị thuốc chưng với rượu, chất thuốc khó bị hư hỏng.
Xếp dược liệu vào trong cái cóng, đổ nước (hoặc tưới rượu) vào cho vừa đủ, đậy kín. Đặt cóng vào thùng hay chảo có nước ngập nửa cóng, dưới đáy cóng có lót miếng gỗ để cóng không sát vào thùng. Đun nhỏ lửa, thời gian chưng tùy từng vị thuốc và số lượng chưng (50 kg thục địa phải 35 giờ, đại hoàng 18 giờ) cho vừa hết nước trong cái cóng.
Khi chưng xong rồi, đem phơi tái. Nếu còn nước dư trong cóng thì lấy mà tẩm cho hết. Làm như vậy 9 lần tức là "cửu chưng, cửu sái" (9 lần chưng, 9 lần phơi). Khi phơi lấy vải che để tránh ruồi, bụi.

4.2. Đồ (hông)

Dược liệu có thể ngâm cho mềm để dễ bào chế, dễ thái, nhưng ngâm lâu có thể mất chất cho nên phải đồ, tức là dùng hơi nước làm mềm dược liệu, thời gian đồ tùy theo số lượng và tính chất của thuốc (loại mềm xốp, cỏ hương vị thì thời gian đồ ít hơn). Đồ xong thường đem bào nóng thì dễ bào hơn.
Dụng cụ dùng là cái chõ, xếp dược liệu to xuống dưới, nhỏ lên trên; thời gian đồ không nên kéo dài nếu không dược liệu sẽ nát (phục linh, xuyên khung, bạch truật).

4.3. Nấu

Dùng một chất loãng (nước, dầu…) nâu dược liệu để làm mềm cho dễ bào chế, làm giảm tính kích thích của vị thuốc hoặc để làm tăng một số hiệu năng khác như nấu với dầu (mã tiền), nước đậu đen (hà thủ ô), nước thường (hoàng tinh). Nước nấu thường ngập quá dược liệu 5 - 10 cm (nấu cao) hoặc gấp 10 lần dược liệu (mã tiền).
Nấu khác với sắc, sắc là nấu đến một mức độ nào đó thì thôi.

5. Các cách chế khác

5.1. Chế

Một dược liệu qua nhiều chặng chế biến gọi là chế. Mỗi dược liệu có một cách chế riêng, phương pháp làm khá phức tạp như hương phụ tứ chế và thất chế, hoàng nàn chế…

5.2. Chế khúc:  

Dùng dược liệu tán nhỏ trộn với nước đóng thành bánh rồi sấy khô gọi là thuốc khúc (bán hạ khúc, thần khúc…).

5.3. Chế sương:

Sương có nghĩa là những bụi mưa lún phún bay lưng chừng. Thuốc chế sương là những vị thuốc được chế biến tinh khiết thành bột mịn (phê sương): cho dược liệu vào cái bát rộng miệng (thạch tín), úp cái bát khác nhỏ hơn, trét kín, đốt ở ngoài để dược liệu thăng lên và kết tinh vào lòng bát trên, cạo lấy phấn.
Yêu cầu của việc bào chế thuốc phiến:
-   Dược liệu bào chế thuốc phiến phải chọn thứ tốt, to mập để miếng thái hoặc bào được to đẹp.
-   Sau khi qua các giai đoạn chọn lọc, rửa sạch (củ, rễ, thân, lá), ngâm ủ, đồ cho mềm thì đem ra thái, bào. Độ dày của thuốc phiến chỉ nên 1 - 2 ly. Những thứ nhỏ vụn thì dùng làm thuốc hoàn tán.
-   Khi tẩm sao thuốc phiến phải nhẹ nhàng, tránh vô nát, hao thuốc.
-   Khi bào thái, tránh rơi vãi xuống đất rồi nhặt lên; khi phơi để vào mẹt sạch, chỗ cao, xa nơi đi lại.
-   Thuốc phiến không nên để lâu, các thứ tẩm sao thì nên dùng đến đâu bào chế đến đó, để lâu trong vòng từ 10 đến 15 ngày là cùng, cũng có thứ dùng đến đâu, tẩm sao đến đấy.
-   Để trong thùng, lọ kín, nơi khô ráo, thỉnh thoảng đem phơi lại, để tránh ẩm mốc.

MỘT SỐ DẠNG THUỐC BÀO CHẾ ĐÔNG DƯỢC THÔNG THƯỜNG

V. MỘT SỐ DẠNG THUỐC BÀO CHẾ THÔNG THƯỜNG

Thuốc phiến là dạng thuốc dùng nhiều chất để bốc thuốc thang. Các dạng thuốc khác không nhiều thì ít đều qua dạng thuốc phiến.

CÁC DỤNG CỤ BÀO CHẾ ĐÔNG DƯỢC THÔNG THƯỜNG

Thứ Ba, 26 tháng 6, 2012

IV. CÁC DỤNG CỤ BÀO CHẾ THÔNG THƯỜNG

Bàn chải (lông, tre, đồng): để chải cho sạch đất, cát, nấm bám lên dược liệu.
Giần, sàng: để phân chia, chọn lọc dược liệu theo nặng nhẹ cho được thêm tinh khiết.
Dao thái (sắt, inox): thái cắt dược liệu cho nhỏ. Thường dược liệu có chất chát thì không dùng dao sắt mà dùng dao inox.
Dao cầu: để thái dược liệu to cứng.
Dao bào: để bào những dược liệu đã được ủ mềm.
Cối, chày: để giã dập hoặc nghiền tán bột, luyện thuốc hoàn thường là cối bằng đồng, đá, sứ, gang…
Thuyềntán: bằng gang để tán dược liệu đã sấy khô thành bột nhỏ, khi tán nên để giấy sạch ở dưới và xung quanh thuyền tán để hứng lấy bột vương vãi ra, tán bằng chân phải rửa sạch chân hãy vào tán.
Rây: thường dùng rây mua ở ngoài chợ, rây này tương ứng với rây số 26 - 24 của tây y, bột rây này khó làm viên nén được.
Siêu (đất, men, thủy tinh): để sắc thuốc.
Chảo: thường dùng bằng gang để sao thuốc. Khi nấu dùng nồi nhôm hoặc inox.
Cóng: nồi nhôm hay đất để chưng thuốc.
Chõ: bằng đất hay nhôm, đồng, inox để đồ dược liệu cho mềm hoặc cho chín.
Các dụng cụ trên đây còn thô sơ, khi dùng phải rửa thật sạch, tiệt trùng bằng cách đốt cồn, nếu cần chúng ta phải nghiên cứu cải tiến để cơ giới cách bào chế đông dược, tránh luộm thuộm và thủ công.

YÊU CẦU CỦA VIỆC BÀO CHẾ ĐÔNG DƯỢC


III. YÊU CẦU CỦA VIỆC BÀO CHẾ

Trần Gia Mô (1562) đời Minh có nói: "Bào chế cốt ở chỗ vừa chừng, non quá thì khó kiến hiệu, già quá thì mất khí vị”.
Câu này là một cách ngôn mấu chốt cho tất cả mọi người làm công tác bào chế Đông dược. Nhưng thế nào gọi là vừa chừng. Đạt được danh từ này thật là khó: cắt, thái nên dầy hay mỏng, sao nên già hay non…
Kỹ thuật bào chế đông dược trông qua thật là đơn sơ, nhưng nó đòi hỏi ở người bào chế nhiều kinh nghiệm, đã làm lâu năm trong nghề. Có hai yêu cầu chính sau đây:
-   Bảo đảm chất thuốc (phẩm chất), kỹ thuật đúng.
-   Người bào chế giỏi, ngoài sự hiểu biết về dược tính, còn phải tùy từng trạng thái, phẩm chất của vị thuốc, tùy từng yêu cầu của bài thuốc mà định việc bào chế cho được vừa chừng.

MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC BÀO CHẾ ĐÔNG DƯỢC


II. MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC BÀO CHẾ

-   Bỏ các tạp chất lẫn lộn trong dược liệu: mốc, sâu mọt.
-   Để dễ thái miếng, dễ bảo quản, dễ tán ra bột hoặc dễ nấu cao để chế thành thuốc.
-   Bỏ bớt vài bộ phận không cần thiết của dược liệu và làm cho vị đó tinh khiết thêm lên (mạch môn bỏ lõi, ngưu tất bỏ đầu).
-   Giảm bớt độc tính của dược liệu (mã tiền, bán hạ, hoàng nàn…).
-   Thay đổi tính năng của vị thuốc bằng cách tẩm sao cho dễ tan vào nước để dễ đồng hóa, dễ thấm hút (quy, hoàng bá, bạch thược… tẩm rượu).

BÀO CHẾ ĐÔNG DƯỢC LÀ GÌ ?


I. BÀO CHẾ LÀ GÌ ?

Bào có nghĩa là dùng sức nóng để thay đổi lý tính và dược tính của thuốc, tiện cho việc chế biến và điều trị.
Chế có nghĩa là dùng công phu thay đổi hình dạng, tính chất của dược liệu.
Nói chung, bào chế là công việc biến đổi tính thiên nhiên (thiên tính) của dược liệu thành những vị thuốc để phòng và trị bệnh. Trong tiếng Việt thường dùng danh từ thuốc chín đối nghĩa với danh từ thuốc sống, chữ chín có đủ nghĩa của hai chữ bào chế.
Tài liệu xưa để lại lâu đời nhất là quyển Bào chế luận của Lôi Hiệu (Trung Quốc) vào khoảng 420 - 479 và sau đổi là Lôi Công bào chích. Quyển này vẫn có giá trị cho đến ngày nay.

MỤC LỤC BÀO CHẾ ĐÔNG DƯỢC

MỤC LỤC BÀO CHẾ ĐÔNG DƯỢC

 

PHẦN I: ĐẠI CƯƠNG VỀ BÀO CHẾ ĐÔNG DƯỢC

      D. THUỐC HOÀN
      E. THUỐC TÁN

PHẦN II: CÁCH BÀO CHẾ CÁC VỊ THUỐC