Kiểm nghiệm vi học Mã tiền-Strychnos nux-vomica

Thứ Tư, 29 tháng 8, 2012

Mã tiền

Semen Strychni


Hạt đã phơi hay sấy khô lấy từ quả chín của cây Mã tiền (Strychnos nux-vomica  L.) hoặc một số loài thuộc chi Strychnos khác có chứa strychnin, họ Mã tiền (Loganiaceae).
Đặc điểm dược liệu
Hạt hình đĩa dẹt, mép hơi dày hơn, đường kính 1,2 - 2,5cm, dày 0,4 - 0,6mm, thường hơi méo mó, màu xám nhạt đến vàng nhạt. Mặt bóng do có một lớp lông tơ mượt từ giữa mọc toả ra xung quanh, giữa một mặt có một chỗ lồi nhỏ (rốn). Từ rốn có một đường hơi lồi (sống noãn) chạy đến một chỗ nhô lên ở mép hạt (lỗ noãn), vị rất đắng.
Đặc điểm vi phẫu 
Vỏ hạt gồm vài lớp tế bào rất dày, nhìn không rõ tế bào. Ngoài lớp vỏ có một lớp lông ở mỗi tế bào lông có gốc phình to ra, thành rất dày, ở vách có những kẽ nứt nghiêng. Phần đầu lông xếp nghiêng tạo thành một lớp khá dày, mỗi lông gồm nhiều sợi nhỏ xếp sít nhau. Nội nhũ gồm những tế bào hình nhiều cạnh, có chứa dầu và hạt aleuron.

Hình 2.4.7a: Vi phẫu Mã tiền
Hình 2.4.7a: Vi phẫu Mã tiền
1. Biểu bì; 2. Lông che chở đơn bào; 3. Nội nhũ
Đặc điểm bột        

Hình 2.4.7b: Một số đặc điểm bột hạt Mã tiền

Hình 2.4.7b: Một số đặc điểm bột hạt Mã tiền
1. Mảnh lông gẫy ; 2.  Mảnh nội nhũ  ; 3. Nội nhũ;
4. Chân lông hình nậm
Bột màu xám sáng, vị rất đắng. Quan sát dưới kính hiển vi thấy: Rất nhiều đoạn lông gẫy hình đũa, rời từng đoạn (1) hay dính với nhau thành bó.  Chân lông hình nậm rời hoặc dính với nhau (4). Mảnh tế bào biểu bì, Mảnh nội nhũ chứa aleuron và dầu béo (2) (Hình 2.4.7).

Kiểm nghiệm vi học lá chè-Thea sinensis

Lá chè


Dược liệu dùng là lá phơi khô của cây Chè (Thea sinensis Sims.), họ Chè (Theaceae).
Đặc điểm vi phẫu

Hình 2.4.6a: Sơ đồ tổng quát vi phẫu lá chè
Hình 2.4.6a: Sơ đồ tổng quát vi phẫu lá chè

Phần gân lá: Gân lá lồi ở cả hai phía. Biểu bì (1) trên và dưới cấu tạo từ những tế bào nhỏ, mặt ngoài biểu bì trên hoá cutin. Mô dày (2) ở phần lồi của lá, các tế bào tròn, nhỏ, thành dày. Mô cứng (7) tạo thành vòng bao quanh bó libe - gỗ gân chính. Bó libe - gỗ gồm cung gỗ (8) và chồng lên cung libe (9). Mô mềm cấu tạo từ những tế bào thành mỏng xếp lộn xộn, trong mô mềm có nhiều thể cứng (3).
Phần phiến lá: Tế bào biểu bì trên và dưới giống phần gân lá, biểu bì dưới mang nhiều lông che chở đơn bào (10). Mô giậu (4) gồm một hàng tế bào xếp đứng vuông góc với bề mặt biểu bì. Trong phiến lá có nhiều thể cứng (3), nhiều tinh thể calci oxalat hình cầu gai (5).
Đặc điểm bột dược liệu

Hình 2.4.6b. Bột lá chè
Hình 2.4.6b. Bột lá chè
1. Lông che chở đơn bào; 2. Thể cứng ;
3.  Mảnh biểu bì mang lỗ khí ; 4. Canxioxalat; 5.Biểu bì; 6.  Mạch xoắn .
Bột lá chè màu lục xám, có mùi thơm đặc biệt. Soi dưới kính hiển vi thấy: Lông che chở đơn bào dài, thành dày, khoang hẹp (1). Rải rác có các thể cứng thành dày, phân nhánh nhiều (2). Mảnh biểu bì mang lông che chở, lỗ khí, mảnh mạch (5). Nhiều tinh thể calci oxalat hình cầu gai (4), mảnh mạch xoắn (6) (Hình 2.4.6b).

Kiểm nghiệm vi học Hoàng nàn-Strychnos wallichiana

Hoàng nàn

Cortex Strychni wallichianae


Vỏ thân hoặc vỏ cành đã phơi hay sấy khô của cây Hoàng nàn (Strychnos wallichiana Steud. ex DC.), họ Mã tiền (Loganiaceae).
Đặc điểm dược liệu
Miếng to nhỏ không đều, cuộn tròn hay cong hình lòng máng, dài 5 - 12cm, rộng 2 - 4cm, dày khoảng 0,1cm. Mặt ngoài có nhiều nốt sần sùi màu nâu xám hay đỏ nâu. Mặt trong màu nâu đen, có nhiều đường vân nhỏ chạy dọc. Dễ bẻ gẫy, vết bẻ không phẳng, vị đắng.
Đặc điểm vi phẫu


Hình 2.4.5. Sơ đồ tổng quát vi phẫu vỏ Hoàng nàn
Hình 2.4.5. Sơ đồ tổng quát vi phẫu vỏ Hoàng nàn
Mặt cắt dược liệu hình chữ nhật, từ ngoài vào trong có:
Bần (1) gồm nhiều lớp tế bào hình chữ nhật xếp thành những vòng đồng tâm và dãy xuyên tâm, nhiều chỗ bị bong ra. Mô mềm vỏ (2) gồm các tế bào dẹt nằm ngang, thành mỏng. Vòng mô cứng (3) cấu tạo bởi những tế bào thành dày hóa gỗ xếp liên tiếp. Libe thứ cấp (5) bị những tia tủy (6) cắt thành từng bó, các bó có đầu nhọn hướng ra phía ngoài. Trong mô mềm vỏ, libe có nhiều tinh thể calci oxalat hình khối (4). Tầng phát sinh libe - gỗ (7). (Hình 2.4.5)

Kiểm nghiệm bột Hoàng liên-Coptis chinensis

Hoàng liên

Rhizoma Coptidis


Thân rễ phơi khô của nhiều loài Hoàng liên chân gà như Coptis chinensis Franch., Coptis quinquesecta Wang, hoặc Coptis teeta Wall., họ Hoàng liên (Ranunculaceae).
Đặc điểm dược liệu
Thân rễ là những mẩu cong queo, có nhiều đốt khúc khuỷ và phân nhánh nhiều. Mặt ngoài màu vàng nâu, mang vết tích của rễ phụ và cuống lá. Chất cứng rắn, khó bẻ, vết bẻ không phẳng, màu vàng tươi, vị rất đắng.
Đặc điểm vi phẫu 
Mặt cắt thân rễ gần tròn. Từ ngoài vào trong có: Thụ bì gồm có tầng hoá bần và lớp mô mềm vỏ ngoài đã chết. Lớp bần thứ cấp cấu tạo bởi những tế bào thành mỏng, xếp đều đặn. Mô mềm vỏ trong gồm những tế bào thành mỏng xếp lộn xộn, rải rác có những tế bào mô cứng thành rất dày xếp thành đám. Có nhiều đám sợi rời nhau xếp thành vòng tròn, sợi có thành dày, khoang tế bào hẹp. Libe xếp thành từng đám ứng với các đám sợi bên ngoài và sát bên trong các đám sợi. Tầng phát sinh libe - gỗ. Các bó gỗ phần trong thường liền nhau, phần ngoài rời. Trong cùng là mô mềm ruột.
Quan sát vi phẫu dưới kính hiển vi huỳnh quang với chùm tia cực tím có bước sóng ở = 365nm  thấy: Phần bần có huỳnh quang màu lam. Mô mềm vỏ, mô mềm tuỷ có huỳnh quang tím nâu. Các đám sợi, mô cứng, gỗ có huỳnh quang vàng.

Hình 2.2.4.a: Vi phẫu Hoàng liên
Hình 2.2.4.a: Vi phẫu Hoàng liên
1. Bần; 2. Mô mềm vỏ; 3.Tế bào cứng; 4. Sợi; 5. Libe; 6. Tia ruột; 7. Gỗ; 8. Tế bào chứa tinh bột 
Đặc điểm bột dược liệu
Bột màu vàng không mùi, vị đắng. Nhìn dưới kính hiển vi thấy: Mảnh mô mềm (5), mảnh mô mang tế bào cứng (1). Mảnh bần (6). Tinh bột kết thành khối. Sợi thành dày thường kết thành bó (2) màu vàng. Nhiều tế bào mô cứng thành dày, khoang rộng, thấy rõ các ống trao đổi (1). Mảnh mạch nhỏ có cấu trúc đặc biệt (4) (Hình 2.4.4b).
Ghi chú
Miền Bắc nước ta có dùng thân rễ loài  Thalictrum foliolosum  DC., họ Hoàng liên (Ranunculaceae) với tên gọi Thổ hoàng liên, cần chú ý phân biệt.

Một số đặc điểm bột Hoàng liên
Hình 2.4.4b: Sơ đồ vi phẫu tổng quát và một số đặc điểm bột Hoàng liên

Kiểm nghiệm bột Hoàng bá nam (Núc nác)-Oroxylon indicum

Hoàng bá nam (Núc nác)

Cortex Oroxyli



Vỏ thân đã phơi hay sấy khô của cây Núc nác (Oroxylon indicum  (L.) Vent.), họ Núc nác (Bignoniaceae). 
Mô tả cây
Cây nhỡ, cao 8 - 10m. Thân ít phân cành. Vỏ cây màu xám tro, mặt trong màu vàng. Lá xẻ 2 - 3 lần lông chim, dài tới 1,5m. Hoa to màu nâu đỏ sẫm mọc thành chùm ở ngọn thân. Quả dẹt, cong chứa nhiều hạt dẹt, có cánh mỏng.
Đặc điểm dược liệu
Vỏ cuộn lại thành hình cung, dày 0,5 - 1,5cm. Mặt ngoài màu vàng nâu nhạt, có nhiều đường vân dọc, ngang. Mặt trong nhẵn, màu vàng xám hay vàng lục. Mặt bẻ ngang có lớp bần mỏng. Mô mềm vỏ lổn nhổn như có nhiều sạn, trong cùng có lớp sợi dễ tách theo chiều dọc.
Đặc điểm vi phẫu
Viphẫu ngang của các mảnh vỏ có hình chữ nhật, từ ngoài vào trong có: Lớp bần gồm nhiều lớp tế bào hình chữ nhật xếp thành những vòng đồng tâm và dãy xuyên tâm, có nhiều chỗ bị nứt rách. Mô mềm vỏ cấu tạo từ những tế bào thành mỏng, hơi kéo dài theo hướng tiếp tuyến, có nhiều đám mô cứng xếp rải rác. Libe cấp hai rất dày, libe bị các tia tuỷ cắt ra thành từng bó, tế bào libe thành mỏng, xếp đều đặn và bị bẹp từng vòng theo hướng tiếp tuyến. Có nhiều đám sợi, sợi có thành dày hoá gỗ rõ rệt. Tia ruột rộng gồm 3 - 5 dãy tế bào hình chữ nhật xếp theo hướng xuyên tâm, chạy từ tầng phát sinh libe - gỗ ra đến mô mềm vỏ chia libe ra thành từng bó, mỗi bó libe lại bị các tia ruột phụ chia ra thành bó nhỏ. Rất nhiều tinh thể calci oxalat hình kim bé phân bố đều khắp mô mềm vỏ và libe. Trong cùng có tầng phát sinh libe - gỗ.
Đặc điểm bột
Bột màu vàng nâu, không mùi, vị nhạt. Soi dưới kính hiển vi thấy: Những mảnh bần (1), mảnh mô mềm cấu tạo từ những tế bào thành mỏng (2). Sợi thành dày, khoang hẹp riêng lẻ hay kết thành từng bó (3). Rất nhiều tế bào thành dày hoá gỗ khoang tế bào rộng, thấy rõ các lỗ trao đổi riêng lẻ hay từng đám (4, 5), các tinh thể calci oxalat hình kim nhỏ (6).

Kiểm nghiệm bột Hoàng bá-Phellodendron chinense

Hoàng bá 
Cortex Phellodendri


      Vỏ thân và vỏ cành (đã cạo bỏ lớp bần) phơi hay sấy khô của cây Hoàng bá (Phellodendron chinense  Schneid. hoặc Phellodendron amurense Rupr.), họ Cam  (Rutaceae).
Đặc điểm dược liệu
Vỏ màu vàng nâu, mặt ngoài thường sót lại các mảnh bần màu nâu, có rãnh, các vết sần sùi. Mặt trong màu nâu nhạt, vết bẻ lởm chởm, màu vàng tươi.
Đặc điểm vi phẫu
Vi phẫu ngang của các mảnh vỏ có hình chữ nhật, từ ngoài vào trong có: Mô mềm vỏ gồm ít lớp tế bào thành mỏng, dẹt, đôi khi ngoài mô mềm vỏ còn sót lại một số lớp bần. Libe rất phát triển, chiếm hầu hết vi phẫu, có nhiều đám sợi xếp thành hàng, bị các tia ruột ngoằn ngoèo cấu tạo bởi 3 - 7 dãy tế bào chia ra thành từng phần, trong các đám sợi có nhiều tinh thể calci oxalat hình khối. Soi lát cắt Hoàng bá dưới kính hiển vi huỳnh quang thấy trong libe và tia ruột có huỳnh quang vàng (berberin), sợi có huỳnh quang không đáng kể.
Đặc điểm bột
Bột màu vàng, không mùi, vị đắng. Soi dưới kính hiển vi thấy: Các mảnh mô mềm (3). Rất nhiều sợi màu vàng, thành dày, khoang hẹp riêng lẻ hay kết thành từng bó mang nhiều tinh thể calci oxalat hình khối (4). Các tinh thể calci oxalat hình khối kích thước 0,015 - 0,04mm (4), Tế bào cứng (2) (Hình 46).

Một số đặc điểm bột Hoàng bá
Ghi chúVỏ thân phơi hay sấy khô của cây Núc nác (Oroxylon indicum (L.) Vent.) được dùng với tên gọi Hoàng bá nam (xem  Hoàngbá nam).

Kiểm nghiệm vi học Cà độc dược-Datura metel

Thứ Ba, 28 tháng 8, 2012

 Cà độc dược

Folium Daturae metelis

 

Lá phơi hay sấy khô của cây Cà độc dược(Datura metel L.) và một số loài Cà độc dược khác (Datura sp.), họ Cà (Solanaceae). 
Mô tả cây
Cây thảo, cao 1 - 2m, thân gần như nhẵn, cành non và các bộ phận non có nhiều lông tơ ngắn. Lá có cuống dài, phiến lá đơn, to, không đối xứng. Hoa to, mọc riêng ở kẽ lá, tràng hoa màu trắng, xếp nếp trong nụ, chỉ nhị gắn liền bởi nửa dưới vào tràng. Quả nang hình cầu đặt trên gốc của đài tồn tại, mặt ngoài có nhiều gai mềm.
Đặc điểm vi phẫu
Vi phẫu lá
Phần gân giữa: Gân lá trên và dưới lồi. Biểu bì cấu tạo bởi những tế bào nhỏ, xếp thành một lớp đều đặn, mang nhiều lông che chở và lông tiết. Mô dày nằm sát biểu bì trên và dưới. Mô mềm cấu tạo bởi những tế bào thành mỏng, tròn hoặc đa giác không đều nhau, rải rác có các tế bào chứa đầy các tinh thể calci oxalat  dạng cát. Bó libe - gỗ gồm có cung libe trên và dưới bao quanh cung gỗ. Cung gỗ gồm các mạch gỗ xếp thành hàng trong mô gỗ, không hoá gỗ.
Phần phiến lá: Biểu bì có cấu tạo tương tự biểu bì phần gân lá, có nhiều lông che chở và lông tiết. Mô giậu gồm một hàng tế bào xếp đứng đều đặn ở sát dưới lớp biểu bì. Mô khuyết được cấu tạo bởi những tế bào kéo dài theo chiều ngang để hở những khuyết nhỏ, trong mô khuyết sát mô giậu có một hàng tinh thể calci oxalat hình cầu gai. 

Hình 2.4.2a: Vi phẫu lá Cà độc dược
 Hình 2.4.2a: Vi phẫu lá Cà độc dược
1. Biểu bì; 2. Mô mềm giậu; 3. Mô khuyết; 4. Gỗ; 5. Libe; 6. Libel; 7. Mô dày; 8. Tinh thể canxi oxalat hình cầu gai; 9. Lông tiết chân đơn bào đầu đa bào; 10. Lông che chở đa bào có chấm như sạn
Đặc điểm bột dược liệu
Bộtmàu lục xám, mùi hắc, vị đắng. Quan sát dưới kính hiển vi thấy:
Lông tiết chân 1 - 2 tế bào, đầu gồm 2 - 4 tế bào (2). Lông che chở đa bào cấu tạo bởi 3 - 4 tế bào thành mỏng xếp thành dãy (1), bề mặt sần sùi, có các đoạn lông gẫy. Các mảnh mô mềm có tế bào chứa tinh thể calci oxalat hình cầu gai (6), dạng cát, tinh thể calci oxalat hình cầu gai đứng riêng lẻ (5). Nhiều mảnh biểu bì mang lỗ khí (3), mang lông tiết hoặc lông che chở. Mảnh mạch xoắn (7). (Hình 2.4.2).

Hình 2.4.2b: Một số đặc điểm bột Cà độc dược
 Hình 2.4.2b: Một số đặc điểm bột Cà độc dược
1. Lông che chở đa bào có chấm như sạn; 2. Lông tiết chân đơn bào đầu đa bào; 3. Mảnh biểu bì có lỗ khí; 4. Mảnh phiến lá (nhìn nghiêng); 5. Tinh thể canxi oxalat hình cầu gai; 6. Mảnh phiến là có tiunh thể canxi oxalat và mạch xoắn. 7. Mảnh mạch xoắn

Hành trình tìm thuốc quý-Nần vàng hạ mỡ máu xấu

Thứ Tư, 22 tháng 8, 2012

Đầu những năm 70 thế kỷ trước, trong lúc đi sưu tầm cây thuốc ở vùng Tây Bắc, tôi đang tìm cây Bổ béo, thì gặp một số người Dao đang làm nương. Thấy trong tay tôi có mẫu dược liệu, một cụ già hỏi thuốc này chữa bệnh gì? Tôi nói dùng làm thuốc ăn ngủ được, béo khỏe ra nên gọi là củ bổ béo. Chuyện trò một lúc, cụ già nói dân mình ở đây lại có thuốc cho bớt béo đi cơ. Tôi bảo cụ đùa đấy chứ đồng bào ở đây toàn người gầy thì dùng thuốc bớt béo làm gì. Thỉnh thoảng cũng có cán bộ béo nặng nề quá đấy, cụ già nói, mình đã mách cho những cán bộ đó dùng, bụng bớt to đi, còn đồng bào mình thì bụng không to nhưng tay chân sưng to, dùng cũng đỡ đi đấy. Cụ già chỉ cho tôi một dây leo cuốn, thân cây sắn, bới nhẹ lớp đất lên đã thấy có củ màu vàng, nhấm có vị đắng. Cụ bảo nó đấy, dễ sống lắm, lúc quốc đất làm nương vơ nó cùng với cỏ dại vứt lên bờ, nó lại mọc, sót một mẩu củ nào trong nương nó cũng mọc, leo lên cây sắn, chỉ làm thuốc thôi không ăn được đâu. Mình gọi nó là “bớt béo”, đùa vậy thôi, vì cán bộ đang đi tìm cây bổ béo mà, dân ở đây có người gọi nó nó là nâu vàng, vì nó hơi giống củ nâu nhưng có mầu vàng.

 Hình ảnh cây và thân rễ Nần nghệ
  Hình ảnh cây và thân rễ Nần nghệ
 Đầu những năm 70 của thế kỷ trước, tôi chưa nghĩ đến tác dụng “bớt béo” của cây thuốc mấy, vì thời đó tuyệt đại đa số dân ta gầy. Nhưng tác dụng chống sưng đau (có thể là viêm khớp) như cụ già nói thì cũng là thuốc mà tôi đang đi tìm. Cây “nâu vàng” mà cụ già đang nói tôi dễ dàng nhận ra ngay, về mặt thực vật học, nó thuộc họ củ nâu, thuộc chi Dioscorea mà tôi đã lưu ý sưu tầm qua các vùng rừng núi nước ta từ vài năm trước. Vậy là tôi sưu tầm, nghiên cứu những cây thuốc họ củ nâu đến giờ đã tròn 40 năm.
 Từ củ nâu vàng (những năm sau đó trong các công trình khoa học đăng trên tạp chí Dược học trong nước và ở Liên xô cũ tôi còn gọi là Nần nghệ, Nần Vàng, chúng tôi đã chiết xuất saponin steroid với hàm lượng khá cao.
 Những năm đầu chúng tôi chú ý nghiên cứu saponin của Nần vàng chủ yếu theo hai hướng:
 - Một là chiết xuất saponin toàn phần làm thuốc chống viêm khớp.
 - Hai là tách Diosgenin làm nguyên liệu bán tổng hợp các thuốc steroid (các nhóm này trong 4-5 thập kỷ hiện tại có tầm quan trọng ngang thuốc kháng sinh).
 Khoảng 2-3 thập kỷ nay, trong nước ta cũng như trên thế giới quan tâm nhiều đến thuốc giảm mỡ máu (do rối loạn chuyển hóa lipid), vì hàm lượng mỡ trong máu cao là nguyên nhân chính dẫn đến xơ vữa động mạch, tăng huyết áp, nghẽn mạch… gây tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim… Những loại thuốc này lúc đầu được tổng hợp từ hóa chất, về sau các nhà khoa học hướng vào nghiên cứu các thuốc có nguồn gốc thảo mộc. Cuối những năm 70 thế kỷ trước ở Liên xô cũ đã lưu hành các chế phẩm Diosponin, Polisponin làm thuốc giảm mỡ máu. Hoạt chất của các thuốc này là saponin tan trong nước chiết xuất từ Dioscorea caucasica. Đó là một loại thực vật rất gần gũi (cùng chi Dioscorea) với cây Nần vàng-Nần nghệ hay cây Bớt béo mà đồng bào Dao gọi đùa từ năm nào. Vậy là trong hành trình nghiên cứu sử dụng saponin của nâu vàng theo 2 hướng đã nói ở trên đã được bổ sung một mục tiêu nữa – nghiên cứu làm thuốc giảm mỡ máu.
 Năm 1985 tại trường Đại học y số 1 Xêtrênốp Matxcơva tôi đã bảo vệ luận án PTS trên cơ sở những nghiên cứu bước đầu cây Nần vàng (Nần nghệ) cùng 5 cây thuốc khác đều thuộc chi Dioscorea ở Việt Nam.
 Từ năm 1986 tôi đã tập trung vào hướng nghiên cứu chính là thuốc giảm mỡ máu từ cây Nần nghệ, cùng với sự cộng tác của cố giáo sư Phạm Khuê (viện lão khoa), các thầy thuốc ở bệnh viện Việt xô, PGS Hoàng Kim Huyền, cùng nhiều sinh viên và nghiên cứu sinh. Kết quả là thuốc Diosgin đã ra đời, được hội đồng nghiên cứu của trường Đại học Dược Hà Nội, ngày 30/12/1995 đánh giá xuất sắc. Sau khi sử dụng cho gần 500 người có rối loạn chuyển hóa lipid, kết quả xét nghiệm sinh hóa trên 5 chỉ tiêu về lipoprotein tromg máu cho thấy tất cả các chỉ số lipid máu đều trở lại bình thường, đặc biệt hạ rất mạnh lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL) và có xu hướng tăng lipoprotein tỷ trọng cao (HDL), do đó hạ được tỷ số CT/HDL (CT-cholesterol toàn phần) Đặc biệt cholesterol toàn phần trong máu của 100% người bệnh đều giảm.
 Thuốc còn có tác dụng hạ huyết áp trên hầu hết các bệnh nhân có huyết áp cao. Trong điều trị không thấy có tai biến và tác dụng xấu nào đáng kể.
 Kết quả nghiên cứu dược lý cho thấy thuốc có tác dụng chống viêm mạnh (tương đương prednisolon), gần đây một số bệnh nhân bị sưng khớp sau khi dùng thuốc đã khỏi. Nghiên cứu dược lý cũng cho thấy thuốc có tác dụng điều hòa nhịp tim và có độ độc rất thấp.
 Vậy là sau 40 năm nghiên cứu chúng tôi thấy cây Nần vàng (Nần nghệ) có 3 tác dụng chữa bệnh khá rõ:
 - Một là chống viêm khớp
 - Hai là hạ cholesterol dư thừa trong máu
 - Ba là hạ huyết áp cho những bệnh nhân huyết áp cao
 Những  nghiên cứu về thành phần hóa học saponin và tác dụng dược lý-lâm sàng của saponin là cơ sở khoa học làm sáng tỏ tác dụng chữa bệnh nói trên đã được sử dụng trong dân gian từ lâu.
Kết quả điều trị rối loạn chuyển hoá lipoprotein bằng thuốc Diosgin bào chế từ Nần vàng (Nần nghệ)
Số TT
Tuổi
Lipoprotein
TG
CT
LDL-C
HDL-C
CT/HDL
Li
L2
Li
L2
Li
L2
Li
L2
Li
L2
1
61
108
80
300
230
243
172
33
42
8,9
5,4
2
60
126
83
240
220
192
155
23
48
10,4
4,6
3
46
170
104
230
225
174
146
40
58
5,7
3,9
4
42
154
157
275
230
214
166
30
32
9,0
7,0
5
48
155
87
245
230
170
159
44
53
5,6
4,3
6
45
110
130
255
212
136
138
43
48
5,9
4,4
7
38
135
106
232
200
177
130
275
48
8,2
4,2
8
55
93
83
290
220
130
156
42
42
6,9
5,2
9
49
158
100
255
206
175
141
38
45
6,7
4,6
10
60'
120
120
280
176
217
107
38
45
7,2
3,9
11
57
82
100
270
235
211
137
42
45
6,4
5,1
12
32
78
92
245
135
204
132
25
45
9,8
4,3
13
56
98
113
295
250
195
210
35
37
8,4
6,7
X
114,8
104,3
263,5
217,6
195,6
150,0
35,6
45,4
7,62
4,89
S
29,36
21,77
24,07
19,57
28,83
24,93
7,17
6,36
1,6
0,9
P
> 0,005
< 0,001
< 0,001
< 0,001
< 0,001
Ghi chú:
TG : Triglycerid
CT : Cholesterol tổng số
LDL-C       : Cholesterol tỷ trọng thấp trong lipoprotein
HDL-C       : Cholesterol tỷ trọng cao trong lipoprotein

 Với công nghệ chiết xuất và bào chế hiện đại sản phẩm Nần Vàng Tiên Thảo có thành phần chính chiết tách từ Nần vàng, được bổ sung thêm Ngưu tất và Hoa Hòe. Ngưu tất giúp Nần vàng tăng tác dụng giảm cholesterol, hạ huyết áp. Hòe hoa tăng sức bền thành mạch máu, ngăn ngừa chứng xuất huyết. Như vậy, Nần Vàng Tiên Thảo là một sản phẩm hoàn toàn có nguồn gốc thảo mộc. Từ những cây cỏ đã được sử dụng lâu đời trong dân gian và y học cổ truyền, lại được nghiên cứu khá kỹ về thành phần hoạt chất, tác dụng dược lý-lâm sàng. Sản phẩm được bào chế trong dây truyền hiện đại, dạng dùng tiện lợi mà có hiệu quả rõ ràng cho những người bệnh có dư thừa mỡ trong máu, huyết áp cao hoặc viêm khớp sưng đau.

 Chế phẩm Nần vàng
 Chế phẩm Nần vàng
TS. Lương y Nguyễn Hoàng
Các công trình nghiên cứu đã công bố
1. Nguyễn Hoàng, Lê Đình Bích, Đỗ Minh Hà: Diosgenin trong Nần nghệ, Dược học, số 2/1983
2. Nguyễn Hoàng: Nghiên cứu một số loài Dioscoreaở Việt Nam nhằm tìm nguồn nguyên liệu diosgenin. Luận án Phó tiến sĩ dược học, Liên xô 1985
3. Muravieva D.A và Nguyễn Hoàng: Động thái tích lũy diosgenin trong Dioscorea collecttii Hook.f, Farmasia (LX), số 1/1986.
4. Nguyễn Hoàng và Hà Văn Hoán: Điều tra trữ lượng cây Nần nghệ (Dioscorea collecttii Hook.f). Công trình nghiên cứu khoa học y dược, 1986.
5. Nguyễn Hoàng và Lê Đình Bích: Diosgenin trong một số loài Dioscorea ở Việt Nam. Công trình nghiên cứu khoa học y dược, 1986.
6. Nguyễn Hoàng, Hoàng Tiến Bình, Nguyễn Minh Thu và Trần Thị Tuyết: Một số được điểm của dược liệu Nần nghệ và chế phẩm Diosgin. Tóm tắt các công trình nghiên cứu khoa học đại học Dược Hà Nội 1986-1990.
7. Hoàng Kim Huyền và Nguyễn Minh Thu: Khảo sát độc tính của Nần nghệ. Dược học, số 2/1991
8. Hoàng Kim Huyền, Nguyễn Minh Thu, Nguyễn Hoàng và Trần Trung Chính: Khảo sát một số tác dụng dược lý của Nần nghệ. Dược học, số 5/1991
9. Nguyễn Hoàng, Nguyễn Trung Chính, Hoàng Kim Huyền, Nguyễn Minh Thu và Nguyễn Khắc Thủy: Nhận định bước đầu tác dụng hạ các thành phần lipoprotein máu cao của Diosgin. Tạp chí y học thực hành, số 3/1992.
10. Nguyễn Hoàng Thuốc Diosgin từ Nần nghệ Dioscorea collecttii Hook.f, Đề tài nghiên cứu cấp trường, 1995

Liện hệ mua hàng: ĐT: 0989965603 hoặc đến địa chỉ phòng khám TS. Lương y Nguyễn Hoàng 22, Ngõ 1, Thọ Lão, Q. Hai Bà Trưng, Hà Nội